Những Cảm Xúc Vơ Vẩn
Nhân Đọc Lại Thơ Văn Cao Bá Quát
Nhân
trao đổi thư giăn thơ văn với
bạn phưong xa, mới được đọc lại
bài thơ nhớ vợ "Vườn Thẩm" của
một danh sĩ đời Tống. Ôi cái chân t́nh nhi nữ
sao mà đẹp lạ lùng. Nhất là thơ
đời Đường th́ lại càng bàng bạc t́nh nh́ nữ,
nỗi nhớ nhà khôn khuây. Đă mấy trăm năm mà
khó ai quên! Ngựi xưa sao họ sống thật
và thẳng từ nhũng t́nh tự "tủn mủn"
như thế nhỉ? Đọc thơ người, bỗng
nhớ ông Cao bá Quát nhà ḿnh! Nhớ ngay trên bàn phím! Nhưng v́
chữ Hán Nho của ḿnh chưa đủ đầy lá mít , nên không giải xuông cho bạn kịp,
đành thôi. Bây giờ ngồi nhớ lại
cứ thấy thấm hơn, và hay hơn lần đầu
đọc nó. Xin ghi lại những cảm
nghĩ lẫn lộn nẩy sinh từ bài thơ đầy
t́nh vợ chồng của Ông Cao Chu Thần.
Tiếp
nội thư tính kư hàn y.-Bút điều
sổ sự.
Nhất giam đăng hạ vạn hàng đề,
Thử dạ tàn hồn nhiễu tú khuê,
Trường hận thùy giao luân cảm
tự?
Độc miên nhân tự vọng kim
kê.
Hàn y ổn thiếp phong tân tứ.
Tố quản tiêm minh tẩy cựu
đề.
Lai thất, tha thời hảo qui khứ,
Nhập môn tri hữu nhẫm thung thê..
CBQ..
Chữ nghĩa Tôi cạn
quá, diễn thơ không hết ư được bài thơ chữ
Hán này. Nên
xin trích lời "dịch xuông" của Nguyễn Quí
Liêm ra thêm ở đây, trưóc khi "khoe" bài "diễn
thơ" của ḿnh:
(Nhận thư vợ gửi áo lạnh,
bút và các thứ khi ở tù.)
Một phong thơ, đọc dưói
đèn muôn hàng lệ nhỏ,
(Để ) Đêm nay hồn vật
vờ, (về bên người vợ) quanh chốn buồng
thêu
Mối hận vô cùng, ai
xui ḿnh bàn việc dệt "chữ gấm".
Kẻ nằm (ngủ) một ḿnh vẫn
trông ngóng tin "gà vàng" (để được ân xá).
Chiếc áo rét xếp phẳng phiu, gói gém bao
(t́nh ) ư mới (của vợ hiền).
Ngọn bút trắng, nhọn, xoá sạch những
lời đề (buồn thảm) xưa,
Rồi mai đây khi được (tha), trở
về nhà (ở G̣ )Lai,
Bước vào cửa, biết rằng có vợ
hiền từng (v́ ḿnh mà phải ) giă gạo
mướn.
(Nguyễn Quí Liêm dịch)
*Những chữ trong ngoặc là tôi thêm vào
cho rơ nghĩa văn xuôi
Diễn thơ:
Nhận thư
vợ gửi áo lạnh, bút và các thứ khi ở tù.
Dưới đèn lệ
nhỏ, mở phong thơ,
Quanh quẩn buồng thêu,
hồn vật vờ,
Dệt gấm ai xui , ḷng ân hận.
Ngóng tin ân
xá, một ḿnh mơ.
Áo lạnh, ấm trong bao
ư mới,
Bút trắng, buồn xưa , đă xoá mờ.
Ngày mai khi được
về quê cũ,
Biết có hiền
thê, giă mướn, chờ.
*Tích: Chữ Gấm, Tần Dậu
Thao giận vợ, tuyệt t́nh. Vợ, Tô Tuệ, dệt gấm
chung quanh có thơ, ư thắm thiết gủi chồng
, chồng hiểu ra trọng vọng đón về.
Tin Gà Vàng: Kim Kê Tinh hiện, tắc quốc hữu
xá" = Sao Kim Kê hiện là điềm có việc ân xá trong
nước
Tích Giă Gạo mướn. Nàng Mạnh quang vợ
Lương Hồng, là quan trong sạch..
Đi ở ẩn, nàng Mạnh Quang theo chồng đi giă gạo
mướn..
G̣ Lai: là nơi nhà của Ông Cao Bá Quát ở..
Đọc bài thơ nhớ thương vợ
của ông Cao Bá Quát, mà nghĩ lung mung đủ thứ. Nghĩ đến cái thời
ông sống.. Cái thời Quân Chủ Phong
Kiến "đại ác" là thế, mà vợ Ông từ
chốn xa xôi vẫn đuợc gửi áo lạnh, bút nghiên
và những thứ linh tinh cần thiết cho chồng. Và
Ông Cao Bá Quát, một tù nhân, vẫn được thắp
đèn đọc thư vợ, và làm
thơ nhớ vợ.
So với cái thời tiến bộ khoa học
XHCN của Hồ Chí Minh và Đảng CSVN, th́ quả nhà Nguyễn
tiến bộ hơn gấp ngàn lần.
Đây
là cái cảm xúc đầu tiên Tôi nhận được, theo bối cảnh bài thơ.
Nghĩ thương, nghĩ qúi ông Cao, Nghĩ
đến bà Cao, lại càng kính trọng. Quí ông Cao Bá Quát ở chỗ
ông trân trọng t́nh nghĩa phu thê: "Tào Khang Chi Thê, bất
khả hạ đường", Ông trân trọng t́nh
chăn nghĩa gối với vợ; trân quí tấm ḷng tận
tụy yêu chống và hiểu chống của bà Cao: Đă phải
giă gạo mướn c̣n tằn tiện mua sắm bút
nghiên, may vá áo lạnh cho chồng nơi lao ngục! Ôi cái chữ
"ái ân, ân ái" của người
Việt đẹp biết là bao! Có Ái, th́ phải có Ân. Ái và Ân không thể tách rời.
Có Ân rồi qua thời gian c̣n sinh thêm ra
cái Nghĩa nữa: Ái Ân Chăn Gối, Ân Nghĩa Vợ
Chồng! Cảm xúc chỉ biết để tràn dâng mà
không dám lạm bàn thêm. V́ chính bài thơ đă
nói đủ. Ḿnh có thêm ra cũng chỉ
rườm ra thừa thăi.
Ngày
xưa lúc c̣n nhỏ học trung học, Tôi cũng như
bao nhiêu người ,chỉ biết ông
Cao Bá Quát qua những bài thơ nôm, nhất là tuyệt tác "Tài
Tử Đa Cùng Phú" của ông, và một số bài
thơ nôm khác duới thể Hát Nói (Ca Trù) như "Uống
Rượu Tiêu Sầu", "Làm Chi Cho Mệt Một Đời"
v.v Hơặc là những câu đối được truyền
tụng về cái cao ngạo ,vô úy của ông! Có lẽ rất
ít người biết đến phần "ướt
át" chan chứa nhân t́nh của Ông Cao Chu Thần, nhà
"phản kháng", "cách mạng" hay "làm loạn"
này. Trừ một số ít học giả, hoặc
những sinh viên chuyên ngành ở Văn Khoa trên Đại Học.
Người
ta vẫn dùng ông, khen ông để tuyên truyền cho phe ḿnh,
thể chế của ḿnh; hoặc bóp méo, hoặc nói không hết,
để chê bai khéo cái tính "ương ngạnh
, yếm thế, làm loạn" của Ông; về
"con người" thật của Cao Bá Quát, con người
mà khi may mắn có dịp đọc hết về thơ
văn, hành trạng của Ông, Tôi đă đem ḷng yêu quí cảm
phục. Với Tôi, ít nhất với cái hiểu
nông cạn của người ít chữ, hiểu muộn,
Ông đứng đầu trên tất cà các văn nhân xưa
của nước nhà, ít nhất là về mặt cận
dân, chân t́nh. Dĩ nhiên do nhiều lư chứng tôi thấy
được qua sử liệu và văn thơ của
Ông, bạn bè Ông. Có thể là yêu quá lố, như yêu tự
do ngôn luận! Nhưng cứ yêu quí "những
cái như thế", có quá lố cũng đă sao? V́
nó chẳng mất ǵ, chẳng hại ai cả!!! Sai cứ
đưa đầu chịu!
Ở
con người Cao Bá Quát, ngoài cái ngang tàng, ương ngạnh
dễ thấy, dễ ghét, là cả một khối chân thực,
nhân bản với chính bản thân ông. Ông chân thực đến
độ làm thơ bày tỏ mọi t́nh cảm thân
thương, gần cận của ḿnh: Với con, vói vợ,
với mái nhà cây cỏ xung quanh. Ông hiểu cảnh
khổ của vợ, và yêu quí vợ không dấu diếm
để làm anh hùng "mặt sắt" như Ngô Đ́nh Diệm.
Hoặc thanh bạch đểu, bịp
như Hồ Chí Minh.
Tôi
không thấy mấy "văn hào" viết về vợ
nhiều mà thiết tha, chân thực như Cao Bá Quát, kể
cả Nguyễn Khuyến, hay Cụ Phan Bội Châu... Ở
Cụ Phan (Thư gửi dạy con) ta thấy được
đức hạnh, và trí lực của cụ Bà Phan..Nhưng không thấy cái t́nh thê nhi chan chưá như Ông Cao!
Tự Quân chi Xuất Hỹ
Tự
Quân chi xuất hỹ,
Dạ
dạ thủ không sàng.
Hải
nguyệt chiếu cô mộng,
Giang phong sinh mộ lương.
Tiểu
kính kư viễn khiếp,
Hàn y lưu cố pḥng.
Tri
thử tác tự úy,
Bất
khiển lưỡng tương vong!
Diễn
thơ:
Từ
dạo chàng ra đi
Từ
dạo chàng ra đi
Giường
trống ḿnh em ngủ,
Mộng côi, trăng biển soi.
Trời
chiều, sông gío lạnh,
Gương
nhỏ theo tráp Anh,
Áo rét ở pḥng Em.
Cho
nhau niềm an ủi,
Chẳng
để mất t́nh nhau..
Ông nhớ thương vợ đến nỗi
Ông c̣n cảm chuyền, tác đổi qua được cái
t́nh đôi lứa với những người khác văn
hoá với Ông, những bày tỏ t́nh cảm lộ liễu
của người phương Tây, Ông không phản ứng
như một sự lạ lùng, mà chiêm ngưỡng để
cảm nhận cái biệt ly của ḿnh qua niềm hạnh
phúc ấm cúng của người.
Dương Phụ Hành
Tây Dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc băng lang kiên tọa
thanh nguyệt.
Khước vọng
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thư lăn tŕ,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy,
Phiên thân cánh thiến lang
phù khởi,
Khởi thức
Diễn thơ:
Bài Hành, Người Đàn Bà
Tây Phương
Áo nàng Tây kia, tuyết một
mầu
Vai chồng nàng tựa ,dưới
trăng thâu
Ghé mắt thuyền
Tíu tít chuyện chi níu áo chồng.
Lạnh quá đêm về, gió biển đông
Nghiêng ḿnh, nàng muốn chồng nâng dậy
Ta cảnh ly sầu, có biết không!
Ôi cách đây gần hai trăm năm, cái thời
phong kiến cổ hủ, mà Ông Cao Bá Quát của tôi lại
lăng mạn t́nh tứ đến tuyệt vời như thế
ư! Vơí cái ḷng yêu thương, nhớ nhung vợ con
"lộ liễu"như thế, Tôi cứ tưởng
tượng cảnh Ông Cao ở nhà, có bà Cao, và các con, mà
không khỏi bồi hồi. Ông sẽ ôm vợ, nựng vợ,
ôm con hôn con...Mà chỉ có riêng hai Ông Bà th́ chắc phải biết!
Không biết bao nhiêu là lời nhẹ nhàng đường mật
nên thơ, dí dỏm! Một người nho sĩ "Á Đông
cổ hủ" của thời phong kiến triều Nguyễn,
rặt khuôn nhà Thanh bên Tầu, mà lại "chiêm ngưỡng"
được cái t́nh tứ, nũng nịu "lộ liễu
công khai", của cô gái Tây; rồi viết thành thơ, th́
chắc chắn không có cái năo trạng "đạo đức
phi Nho" của người đương thời! Với gia đ́nh Ông, chắc không có cái cảnh chồng
chúa vợ tôi; như vẫn thường thấy ở Việt
Hữu Sở Tư
Tiểu tiểu nhân gia tử,
Song song bộ ngữ tŕ
Vong t́nh năng hữu kỷ (1)
Ngô diệc ức ngô nhi.
Luyến mẫu đề
cơ xứ.
Khiên ông học bái th́.
Môn lan kim bán tịch,
Ư nhĩ hệ
tương ty.
Diễn thơ:
Nỗi buồn
Be bé con nhà ai,
Sóng đôi lững thững
nói.
Ai quên hẳn được t́nh,
Ta nhớ con ta quá!
Lúc đói bám lấy mẹ,
Bám Ông học vái thưa.
Cửa nhà nay nửa vắng,
Nh́n bay mà nhớ lây,
T́nh cảm của Ông chan chứa với mọi
người thân, thương vợ, thương con đă
đành. Ông thương chị thương em
cũng như thế. Khi đang trăn
trở chuyện riêng, vấn lỗi ḿnh nơi viễn xứ
xa xăm. Mà nghe tin chị mất, Ông đau ḷng đến
bấn loạn:
Đắc gia thư,
thị nhật tác.
..............
Bổ quá niệm di thâm,
Há duy đăn thùy mặc
Khách tự cố hương lai,
Kiến Ngă phục thán tức.
Đạo quân hữu hận sự,
Ái tỉ dĩ quyên vực,
Cúc thủ khải giam thư,
Tinh thần loạn hoàng hặc.
Ô hô! Cốt nhục t́nh,
Viễn khách huống di trắc.
.................
Nhật mộ độc trầm ngâm,
Tam văn vọng thành bắc.
Diễn thơ:
..........
Đang nghĩ để sửa sai,
Lặng người cúi buông màn,
Có khách từ quê đến,
Gặp ta cứ than dài,
Nhà Ông có việc tang
Chị Ông vừa mới mất,
Ḷng bàng hoàng rắm rối,
Ôi thôi, t́nh cốt nhục.
Tha phương lại buồn hơn,
......... Trầm ngâm một ḿnh tối,
Ba lần ngóng Bắc
thành.
Nghĩ đến đây,Tôi
định đem những hạng người như Hồ,
Diệm , Thiệu ra so sánh, nhưng thấy làm vậy là bất
kính với Ông Cao Bá Quát, nên thôi! Không thể đem những
phường bán nước hại dân ra mà ví ngang với một
con người đại nghĩa, hùng tâm của dân tộc
được. Người ta tranh căi nhau, bảo
ông Cao Bá Quát làm "khởi nghĩa cách mạng"; c̣n cần
bằng chứng nhiều để tranh luận.
Nhưng tôi tin Ông Cao làm cái ǵ ǵ đấy, gọi là
"cách mạng" hay, "nổi loạn", hay "khởi
nghĩa" v.v cứ gọi. Với tôi, không
quan trọng. Nhưng chắc chắn Ông
v́ t́nh cảnh nhân dân mà làm. C̣n bảo những tên bán
nước làm Tổng Thống, Chủ Tịch Tổng Bí
thư v.v mà v́ dân th́ có ba vạn chín ngh́n quyển sách làm bằng,
tôi cũng xé bỏ, nhổ vào mặt..
Có
ai nghĩ được con người ngang tàng, coi cái chết
nhẹ như không kia, lại ủy mỵ
nhân t́nh thế ấy nhỉ? Mà đâu chỉ
có thế. Ông c̣n nhớ quê nhà da diết
nữa. Nơi xa, ở kinh thành Huế, mà khi có ai từ
Bắc ra Ông liền gặp hỏi thăm tin tức quê
nhà, t́nh cảnh cha mẹ....
Kiến Bắc nhân lai,
Nhân thoại cố hương tiêu tức.
Mạch mạch tương khan thức lệ
ngôn,
Lăo thân kiện tại liên chi cách,
Trĩ tử hoan lai hỷ
phụ tồn.
Cựu thảo tự trần đôi phế
lộc,
Tiểu mai vô lại khóa
tu viên.
Trường đ́nh bắc cố vân thiên
viện,
Xuân vận thùy chiêu vị
tử hồn?
Đọc bài thơ nhớ vợ lúc nhận
thư, nhớ con khi nh́n con trẻ người khác v.v th́
đủ thấy Ông không lúc nào là không nhớ vợ,
thương con, kính nhớ cha mẹ, nhớ quê
hương, làng cũ. Con người của Cao quân sư,
quân sư của "giặc" phản Triều Đ́nh mà
chan chứa bao la như thế ư? Trời
đất hun đúc khuôn nào linh thiêng, để tác tạo
ra Chu Thần vậy nhỉ?
Cái
đặc biệt trong nhân cách và t́nh thương chan chứa
của Ông, là ở chỗ nó không giới hạn chỉ có
nhà ḿnh, gia đ́nh ḿnh, mà nó dàn trải bao la cho đến những
cùng khổ của đồng bào ông, những người
Ông gặp trên đường lưu lạc, tù đày, hay
công tác..Hoạc những lúc thơ thẩn buồn đời
dạo chơi, vào chiều tối, hay trong sáng sớm
sương mờ. Cái t́nh của Ông là cái t́nh thật
người, và cũng thật là của kẻ sĩ, lo cái
lo của thiên hạ, vui cái vui của thiên hạ "Tiên
ưu, thiên hạ chi ưu, hậu lạc, thiên hạ chi lạc.."
T́nh
cảm của Ông nó "tủn mủn", nhỏ bé. Nó
đi từ một con người dân giả, đến
đất nước, quê hương. Phải
chăng nó là tâm t́nh của một nhà ái quốc, lănh đạo
chân chính? Không, ông không "tủn mủn" theo cái
đạo học nhân từ như cụ Nguyễn Du,
thương thập loại chúng sinh, thương đời
cô gái Tiểu Thanh, chỉ do đọc trong một truyện
kư măi ba trăm năm trước.. Để rồi than thở
không biết ba trăm năm sau có ai khóc ḿnh như ḿnh khóc
Cô Tiểu Thanh kia chăng?
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp
Tố như?
(Độc tiểu Thanh Kư)
(Ba trăm năm nữa bên trời,
Ai người tri kỷ
khóc đời Tố như?)
(NK diễn thơ)
Cụ Nguyễn Du có cái "tủn mủn"
của bậc chí nhân, C̣n Ông Cao, có cái "tủn mủn"
của người "Đại Nghĩa". Cái nh́n của một
người lănh đạo nh́n từ cảnh cá nhân, mà rồi
nh́n ra nguyên nhân cùng khổ trong xă hội, cơ chế.. Ông bén nhậy với t́nh
ngựi, cảnh người. Cảm thương cảnh
nghèo, nh́n thấu đuợc nguyên nhân, như trong một buổi
chiều tối đứng lặng nh́n một người
con gái qua cầu:
Mộ Kiều Qui Nữ,
Tư lường hàn khổ vị
đương ky,
Khang ngột như châu
khước điển y.
Phong lộ quá kiều hồn bất ác,
Ỷ môn ưng hữu vọng
nùng qui.
Diễn thơ:
Cô gái buổi tối qua cầu về
nhà.
Gió rét sao bằng đói khổ,
Gạo hơn vàng, cầm áo mà mua..
Gió rét qua cầu không biết lạnh!
Biết có người thân, đói bụng
chờ....
Ông thâm cảm được
cảnh của từng ngựi dân. Trong cái nh́n
của Ông là cả một nỗi xót xa lớn cho xă hội
ông đang sống. Nh́n đâu ông cũng gặp như
thế... Cả đến người tát nước bên
đường Ông gặp khi đi ngang qua:
Hiểu Lũng
Quán Phu.
Vụ lư song cao tấn thủ khiên,
Phúc hiêu, thần chiến,
đoản xoa xuyên.
Bách thầm phá thảo trường đê mạch,
Ngũ xích tân ương
thượng bạn điền.
Diễn thơ:
Người tát nước
trên đồng cao.
Gầu đôi thoăn thoắt dưới
sương mù,
Cánh tay áo ngắn đói
môi run.
Bên đê bờ cỏ vừa mới phá,
Mạ trên, năm thưóc
chỉ chấm bùn.
Cho đến người
phu nhà đ̣n, vác ḥm, mà ông gặp giữa phố, nhất nhất
nó thấu vào tâm nhân, ḷng nghĩa của Ông. Ông không chỉ ngắm
nh́n xuông của kẻ ngoại quan, bàng thị, mà xà đến
để lắng nghe nỗi khổ của họ, hoặc
hỏi thăm sự t́nh, nếu thuận tiện:
Phụ
Tương Tử.
Vũ vũ phụ tương tử,
Nhất bộ hồi nhất thán..
Hốt phùng y quan nhân,
Ác thủ lệ doanh nhân.
Vấn tử kim hà
cư?
Thập niên bất
tương phùng.
Tự vân trường dĩ hỹ,
Hể hữu nhân da dong?
Tích giả đê hạ điền,
Thập mẫu phả dĩ
phong.
Tự thất Mậu Tư thu,
Lữ thực vô tây
đông.
Qui lai điền cửu vu,
Lư tư vấn thâu cung.
Thâu cung hữu tŕnh kỳ,
Tiện trị điển bất đắc,
Ô hô quân cố nhân.
Mại đắc thương gia lực,
Nhân sự lũ quai ngộ,
Tam tải vô thân t́nh.
Khởi bất dục thường kiện,
Xuy cấu nhật giao
tinh.
Đường thượng sung ph́ cam,
Hạ tận sấu lộ tích,
Thùy gia vô chủ nhân,
Khứ thử dục hà
thích?
Tô trách nhật dĩ cửu,
Dong tiền dư sổ
mâu.
Triêu lai lư tửu tịch
Ngộ phá lưu lư tôn!
Ngưuời ta khổ đến thế! muà màng đă mất mát, quan trên lại đè
nén, bỏ nhà đi cầu thực, người thân, nhà cửa
phải bỏ xa. Thế cũng không thoát quan quyền thuế
má gắt gao, c̣n bị chủ đánh mắng,
bỏ đói, lỡ sai việc sợ đ̣n rồi phải
bỏ trốn...Bơ vơ vẫn bơ vơ, đói khổ
vẫn đói khổ v.v Và đến người ăn mày
trên phố. Tất cả những cùng cực "cá
nhân" "tầm thường" nhỏ bé " ấy
không bao ǵ̣ Ông lạnh lùng đi ngang, bước rảo,
như những "phụ mẫu chi dân", và người
Việt Nam hôm nay, tôi từng gặp ở sài G̣n, Huế , Hà Nội, những người mà họ
có thể ăn nhậu cười nói bên cạnh những
cảnh đau thương như thế! Thậm chí họ
c̣n buông vài câu khôi hài giỡn cợt, hay mắng nhiếc vô
nhân tâm... "ăn mày là do họ lười
biếng v.v".
Cái tử..
Cái tử lập tŕ trù,
cơ hàn bất cảm hô..
Y khiên song lạp phá,
Mệnh đăi nhất tiền
tô.
Trưng liễn thời phương cấp,
Phương lưu nhữ
hạt cô?
Bất tài diệc nhân dă,
Nh́ nữ mạc khiên du.
Diễn thơ:
Người ăn
mày.
Ăn xin, vẻ ngập ngừng,
Đói rét không lên tiếng
Nón rách chắp áo lê
mạng sống, một đồng
tiền.
Việc thuế đang cấp bách,
Lưu lạc, tội đồ ǵ ?
Ăn mày, cũng người cả,
Đừng chọc phá ngựi ta..
Ôi cái nh́n nhân bản, về nhân phẩm một
con người bất kể hèn sang của Ông, nó rơ như
trăng rằm! Đấy cái nỗi khổ của từng hạng
người dân cùng cực, mà không có những người
như Ông Cao, bén nhậy, cận t́nh, t́m hiểu làm sao mà thấu..!!!
Ngày xưa không có Truyền h́nh để
"tuyên truyền" cái khổ của dân chúng, quan trên dễ
mấy người biết và muốn biết. Có ngay
sát cạnh có người vẫn không hay! Thế mới thấy
"nhận biết" không chỉ do mắt nh́n mà c̣n do
tâm trí, tâm địa con người nữa!
Ngày
nay, cái nỗi "khổ" 11-9-2001, của dân Mỹ cứ
được truyền h́nh nhắc đến, văng vẳng
theo điệu nhạc buồn thê lương! Khiến
ḷng ai cũng bùi ngùi thương cảm!!! Giả như cảnh
người dân Palestine bị bắn, bị đánh đập
hàng ngày; Người A Phú Hăn lếch thếch rạc rài bom
đạn bên vệ đường; hay là người Việt
Nam khóc than bên những xác chết tay bị trói quặt, cái
đầu lâu bêu trong nón lá, của tết Mậu Thân; hoặc
cảnh trẻ em, người già phụ nữ bị bắt,
chết sơng xoài trong mương cống ở Mỹ Lại,
xác trẻ em, bà lăo nát văng trên đường phố ở
Khâm Thiên v.v mà cứ được chiếu liên tục trên
truyền h́nh thế giói như thế th́ sao nhỉ? .. Nghĩ
lại cái khổ nhỏ của nhà giàu nó vẫn lớn, và
dễ làm động "ḷng người" hơn là v́
thế.. Tây nó có câu "Out of sight, out of
mind"=Khuất mắt, ngoài tâm! kể
ra quá đúng...Do ḷng người hời hợt, chuộng lợi,
phù thịnh, tâm địa nông cạn mà thôi. Thời đó,
mà Ông Cao của tôi đă cố gắng làm việc nói lên sự
thật này một cách lạc lơng...để rồi... Ông
làm khởi nghĩa!
Nhưng ở Ông, không có cái đạo mạo,
đạo đức giả của những "nho sĩ
quân tử" giả làm chân chính. Ở Ông, tất cả
cái t́nh, t́nh nhi nữ, t́nh cha con, vợ chồng, bằng hữu,
đất nưóc, nhân loại, là cả một khối
t́nh nhân bản và nghệ thuật tuyệt vời...Ông yêu
cái đẹp của phụ nữ, của nàng con gái. Ông
yêu say mê và trân trọng nữa cơ!:
Giai Nhân,
Giai nhân nan tái đắc,
Trót yêu hoa nên gian díu với
t́nh.
Mái tây hiên nguyệt gác chênh chênh,
Rầu rĩ bấy xuân
về Oanh nhớ.
Phong lưu tài tử đa xuân tứ
Trường đoạn Tiêu nương nhất
chỉ thư.
Nuớc sông Tương một giải nông
sờ,
Cho kẻ ấy người đây mong mỏi
Bứt rứt nhẽ trăm đường
ngh́n nỗi,
Chữ chung t́nh biết
ngỏ cùng ai?
Trót v́ găn bó một hai...
******
Tài tử vói giai nhân là nợ sẵn,
Giải cấu nan chũ
ấy nghĩa là sao?
Trải xưa nay từng đă xiết bao,
Ḱa tan hợp nọ khứ lưu đâu dám
chắc
Giai nhân khứ khú hành hành sắc
Tài tử triêu triêu mộ mộ t́nh..
Ấy ḱa ai; như mưa tuôn như nước
chảy, như gío mát như trăng thanh,
Lơ lửng khéo trêu ḿnh chi măi măi.
Trời đất có san
đi mà sẻ lại.
Hội tương phùng
c̣n lắm lúc về sau.
Yêu nhau xin nhớ lời nhau...
Thế mà Du Tử Lê một lần nói chuyện
ở Đại Học Úc Châu, bảo nhà văn xưa trưóc
đầu thế kỷ 20, trước khi văn hoá Tây
tràn vào, không biết lăng mạn, không biết nói về ḿnh.
Rơ ngớ ngẩn!
T́nh cảm nhân-bản của Ông nhẹ
nhàng, tha thiết bao nhiêu th́ Ông khinh bỉ bọn cường
quyền, gian lận bấy nhiêu. Ông khinh bỉ hạng
theo đuôi , xu phụ, vào hùa, noí gian, hiếp
đáp nhân dân. Ông khinh ghét đến độ thẳng thừng
nói rơ với bạn cái khinh ghét của ḿnh ,
không nề hà né tránh, khi bạn sắp đi nhậm chức
quan, để cảnh giác bạn:
Tống
Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường Tín kiêm trí Lê Hy
Vĩnh lăo kế.
Cố nhân phân thủ Hà thành lộ
Thiên lư đăng xa nhăn
như cố.
Bệnh trung vô tửu tống quân hành,
Vọng đoạn giang
đ́nh thụ sắc mộ.
Thủy quân thích hoạt ṭng ba thư,
Tiền vi Thạch An hậu
Phù Cừ.
Thạch An giai sơn dữ
sơn lạc,
Phù cừ giai thủy dữ
thủy cư.
Nhân chi dục an các kỳ
tính,
Ngă dĩ vật nhiễu
hành hữu dư.
Lưỡng bang sự dị chính nhược
nhất,
Ngoạ nhi tŕ tri hà dụ
như
Tức kim bị mệnh
lai tư địa.
Giản yếu hề cư thị quan ky
Văn nhă danh hương cố hữu vân,
Tài phú sở mệnh kim tắc
dị.
Tam tỉnh tiếp liên giang dă gian,
Bách công thác xử binh dân
lư.
Y quan chi tộc bán thanh lưu,
Tỉnh ấp chi hào
đa cố lại.
Nội ngu đố dịch,
ngaọi tham quan,
Thượng úy
vương chương hà thanh nghị.
Ngô tào phan doăn hữu di âm,
Tạc nhật Ứng Hoà do cận sự.
Tử chân luyện đạt cánh hà ngôn,
Sỹ hoạn tam qui yết
toạ gian.
Bảo chướng kiển ty ṭng thức
triệt,
Ưng chiên loan phượng định thùy
nan?
Bả bút tặng quân, thỉnh quân biệt,
Ức ngă nhân chi hoàn hữu thuyết:
Thử bang cổ vị phú danh nhân,
Tiều Ẩn, Ức Trai đĩnh song tuyệt,
Trượng phu sinh bất năng phi can chiết hạm, vị thế phù
cương thường.
Toạ thị đương đại
kiêu sài lang;
Bạch đầu trú cẩm ô cố
hương!
Phục bất năng thuẫn
ty ma mặc, phi hịch định tứ phương.
Đê đầu oải ốc
khí bất xương.
Mộ niên tử chẩm nhi
nữ bàng,
Túng nhiên địa hạ qui lai kiến nhị
tẩu,
Diện hậu tâm quỉ, thần thảm
thương!
Toạ niệm thử sự thành khái khang,
Y ngô lăo hỹ hà sở
vương?
Quân lại, thỉnh phóng
Nhị Khê dữ Cung Hoàng.
Đăng nhị tẩu chi từ đường,
Vị ngă, tái bái khuynh tiêu
tương.
Thả báo cố nhân Lê Hy Vĩnh,
Bảo ngă hảo tại, bất tử duy
bệnh cuồng!
Trong bài, Ông nhắc đến hai bậc tiền
nhân, sĩ phu đại nho mà Ông ngưỡng kính: Chu
Văn An và Nguyễn Trăi. Hai nhân vật
này là hai đại hiền tài của đất nưóc, dẫu
mỗi người xuất xử có khác nhau, nhưng với
ông, ai chân t́nh v́ nước v́ dân, đều là thần của
bá tính, nên nh́n vào mà noi gương. Ông nhắn với bạn
hăy suy xét trước sau mà chọn lựa giữa hai con
đường: V́ dân hay hại dân. Nếu v́ hèn, chỉ biết
miếng lợi, th́ sẽ chỉ là kẻ "mặc áo gấm"
mà về làm nhục tổ tiên, bôi nhọ đất tổ
mà thôi; Sống th́ ăn như mọt, về già chỉ rúc
đầu vào vợ con mà chết. Cả đến khi chết
rồi, phải gặp lại tổ tiên, gặp lại
các bậc tiên hiền như hai cụ Chu Văn An, cụ
Nguyễn Trăi th́ mặt mày cũng chỉ lấm lét thần
thảm thương mà thôi.
Túng nhiên địa hạ qui lai kiến nhị
tẩu,
Diện hậu tâm quỉ, thần thảm
thương!
Không kể cái coi thường quan cách, công
danh, phủ phục tiền bạc, quyền thế như
người đương thời, "Mỏi gối quỳ
ṃn sân trướng phủ"; những cái mà nếu ông muốn,
ông chỉ cần gật đầu là có, chứ không qú gối
khom lưng, uốn lưỡi như người khác. V́ ông là bạn nể trọng của hàng
Vương Tôn, Quốc Công, Vua cũng nể tài. C̣n một nét đặc biệt về Ông, đó
là cung cách ứng xử với thẳng thắn, nhất là
với bằng hữu. Cái lối cư
xử chân t́nh, thẳng tắp không lụy, cả nể
t́nh thân. Ông cư xử bằng cái Nghĩa,
cái Chính Đáng. Ngay cả đối với bạn Quan,
Quốc Công hay bạn thường.. ..
Với
bạn quan tước công hầu, Không kể có lần Ông
đă chê thẳng cái thi xă của Tùng Thiện Vương,
Tuy Lư Vương là "Khắm" như thyền chở
mắm Nghệ An (Câu thơ Thi Xă, Con thuyền Nghệ An) ,
ông thẳng lời nhận định, khi Miên Thẩm xin
đề tập thơ, trước khi đi Quốc Oai
làm giáo thụ..Ông nói thẳng về quan niệm thơ
văn của ḿnh, nói như "dạy" bạn,
nhưng khiêm tốn đề bạt ở cuối tập
bài..
(Bài tựa cuối
đề cho tập thơ Thương Sơn, Miên Thẩm-Tùng
Thiện Vương. Bạn vong niên trẻ hơn Cao Bá
Quát.)
(-Bài nguyên tác chữ
Nho, h́nh như Vũ Khiêu, hay Nguyễn Huệ Chi dịch,
Tôi chưa rơ..)
-Tôi sắp đi Quốc Oai, v́ ốm nên
chưa khởi hành. Thuơng Sơn công, sai người
đến hỏi rằng:
"Ông sắp đi rồi, có lẽ
nào lại không có mấy lời để lại trong tập
thơ vừa rồi của tôi?".
-Tội nghĩ: Thơ thật là khó nói. Quốc Công cũng đă biết rồi. Hiện
nay có cái học khoa cử in sâu vào người ta đă mấy
trăm năm, tiếng vang của Phong, Nhă, hầu như
đă tắt hẳn. Quốc triều ta trị giáo sáng sủa
(!). Các tác giả nối gót mà ra đời. Nhưng v́ cái
thói ủy mị yếu ớt c̣n rơi rớt lại, ít
có người tự thoát ra được: Người
Kém th́ khổ về nỗi nhân tuần, dễ dăi, người
Có Hào Khí, th́ mắc vào bệnh nuốt sống bắt
tươi. C̣n những người sức học gọi
là dồi dào, hư hửng tự đắc, th́ chỉ muốn
vơ vét trăm nhà, thâu tóm mọi thể,
thành ra mô phỏng quá nhiều, mà phong cốt chưa cao. Tô điểm có khéo nhung tinh thần c̣n thấp.
Đúng như Khương Tây Minh đă nói: "Rập kiểu
những hơi ngâm, câu rườm, cho đó là khí tượng
để giả thác làm thơ thịnh Đường. Đó là
thói quen say đắm vào thi thoại của các nhà, ăn món
ăn của cổ nhân, mà không tiêu hoá được".
-Bàn về thơ, tuy có phải chứ trọng
về quy cách, nhưng làm thơ th́ phải gốc ở
tính t́nh. Nếu việc nào cũng bắt chước cũ,
câu nào cũng học theo người: Đầu
thôn tạm biệt, đă hát câu chén rượu Dương
Quan, xóm cạnh quan chơi, đă ngâm câu "tiếng gà
điếm cỏ". Nắn nót những lời
biên tái, loè người là tuyệt diệu Gia Châu, chải
chuốt các thể trong cung, tự phụ là văn thời
Thiếu Bá.
-Có thể ngh́n bài chứa đầy bể
khổ, trăm vần đă cạn ruột khô, ham
được khoe nhiều, không quan hệ ǵ đến
tính linh cả! Ví như học viết, nếu cứ theo lề lối không bến hoá, th́ tuy có hệt
đuơọc cái mặt ngoài của lối chữ Lan
Đ́nh, cũng chẳng ai thèm kể vào đâu. Tô Đông Pha bàn về
cách viết, có nói : "Không học là
hơn!". Ai hiểu được ư ấy,
th́ cùng có thể nói chuyện làm thơ được.
-Sớm tối tôi sẽ từ biệt, nên
tập thơ đưa lại đây, Tôi chưa thể
đọc hết đưọc, chỉ xin đem ư kiến
quê mùa phụ vào để đạo đạt lên, mong dạy
bảo thêm cho mà thôi. Tôi theo Quốc Công
chơi đă lâu. Thơ của Quốc Công
đâu phải đợi đến ngày nay mới nói đến?
Và cũng đâu phải đợi đến
Quát này mới có thể nói được.
-Sáng ngày mai, ở phía cầu Đốc Sơ, trông về phía nam cửa khuyết có
ánh sáng rừng rực bốc lên trên nửa tầng không,
đến tận trời xanh, mây trắng, từ xa nh́n lại
mà không chán. Đó không phải là núi Thương
Sơn ư? Mua rượu uống rồi, cởi áo
nơi trường đ́nh, bồi hồi ngâm vịnh các
bài thơ "Hà Thượng" của Quốc Công, ḷng
khách càng cảm thấy xa xăm man mác.
Năm Tự-Đức thứ
3 (1851) đầu mùa hạ, ngày lành trong tuần sơ.
Cúc Đường Ngoại sử, Cao Bá Quát,
Chu Thần bái thư.
Kể ra một thư kư quèn, chạy
văn thư như ông (Hành tẩu bộ Lễ) mà lại
được một Quốc Công nhất phẩm triều
đ́nh, trọng vọng quí mến, dù ông thẳng thừng
ngang ngược, mà họ không giận, th́ đủ biết
nhân cách trong sáng của ông như thế nào, và cái khí độ
khoáng đạt của ông Quốc Công này ra sao rồi...
Ngay
cả những cái thú tao nhă, ư riêng của bạn, mà ông thấy
cần phải phê b́nh, ông cũng thẳng tuột, như với
ông bạn Phan Sinh , ông phê ngay cái cách uống trà của bạn
:...
Vị mính
Tiểu Kê đồng Phan Sinh dạ toạ.
(Phan Sinh hiếu thủ
mính xuyễn, nạp hám đạm trung, kính túc chữ ẩm,
hỷ hữu lương phức)
Tuyển hữu mạc thủ
khí!
Thủ khí mê
kỳ nhân.
Vị mính mạc thác hoa!
Thác hoa ly kỳ
chân.
Hiểu tỉnh cấp
thanh tuyền,
Tế thán ly
tân hỏa.
Vô yên dữ trần khí,
Hối thủ
nhất tiếu khả.
Như hương quí thanh
chân,
Bất dụng
ngoại thước ngă.
Vô dĩ nhất ác khan
Phóng nhĩ
tị quan giả.
Huyễn phục phi tráng
nhan,
Phồn âm biến
Đại Nhă.
Thí lưu nhất
chuyển ngữ.
Tự Tại, chứng hiện
quả.
--
Diễn thơ:
Bài tiểu Kệ, làm lúc uống
trà khuya với Phan Sinh.
(Phan sinh thích ướp
Trà vào sen, để qua đêm, lấy ra uống, v́ cho là có
mùi thơm thú vị)
Kết bạn theo bề ngoài!
Bề ngoài
khó nhận ai.
Trà ướp hoa đem uống,
Mất vị thật Trà thơm.
Sáng sớm dùng nước
giếng,
Than hồng
nhóm lửa cơi.
Bụi , khói không vẩn trời,
Rửa tay,
ngồi cười khẽ
Thử hương quí tinh
Trà,
Chẳng cần thêm vị
khác..
Đừng v́ yêu cái hiếm,
Đánh lừa mũi
của ta.
Áo sắc
không mạnh người.
Lời dài mất nhạc
hay
Xin ghi nhớ
lời này.
Tự tại minh chứng
ngay..
Có ai được mời uống Trà Sen hiếm
quí, lại chê ngay và c̣n "chơi xấc", " "dạy
ngược" bạn ḿnh nữa kia chứ. Không thấy sử ghi lại là Phan Sinh có giận
Ông hay không? Nhưng Miên Thẩm Tùng Thiện
Vương, và Quan Án Sát Phương Đ́nh,
Nguyễn Văn Siêu, cho đến khi Cao Bá Quát bị chết,
hay (bị tù tội hành h́nh) v́ khởi nghĩa chống triều
đ́nh, vẫn một ḷng bênh bạn, yêu quí bạn, dẫu
ngược ư triều đ́nh. Xét đến đây mới
thấy con ngựi xưa quả chân t́nh và dũng cảm. Người ta cảm mến, trân qúi cái nhân cách, việc
làm của nhau, bất kể lợi danh. Thời nay,
đồng minh, đồng chí, chỉ v́ miếng cơm,
manh áo, chức vụ mà bỏ nhau, không dám nhận bạn.. như những bạn cũ,
đồng chí của Ông Trần Độ! Hà Sĩ Phu! Ng̣ai
này, bạn bè bỏ nhau cũng chỉ v́ một công việc,
một cái danh hờ, một mảnh bằng, một phe
nhóm. Không dám nhận nhau, bênh nhau, chỉ v́ bạn ḿnh khác
chính kiến, bị chụp mũ! Hoặc chính bạn ḿnh
chỉ v́ nói lời chính trực mà nghi bạn ḿnh là Phản
Động, hay Việt Cộng nữa cơ! Ôi tất cả
là v́ sợ: Sợ cái ǵ nhỉ? Khi đă hèn và sợ, th́ sợ
đủ thứ! Nói làm sao hết được.
Thôi
thôi! Người xưa và nay quả có khác! Ai lên án Nho giáo! Chứ Nho giáo đă góp thêm vào để
rèn luyện nhân cách mấy đời Kẻ Sĩ Việt
Cái
nghèo giàu, hèn sang được nh́n khác biệt.. Miên Thẩm giàu sang mà nghèo. Chu Thần nghèo
mà sang! V́ Miên Thẩm giàu của mà nghèo bạn chân t́nh , khí khái, chỉ rặt một bọn xu
phụ ton hót chung quanh; Chu Thần nghèo của nhưng giàu
t́nh người, lắm bạn chân t́nh khoáng đạt, gác
gối uống rượu ngâm vịnh bất kể nệ
hà!. Miên Thẩm nhờ may mắn được kết
giao với Chu Thần mà hạnh phúc..Chả
trách ngựi kém cỏi hay phê b́nh Miên Thẩm cao sang mà
thơ văn có giọng hàn nho... Không có Cao Chu
Thần th́ tâm hồn đời sống Miên Thẩm quả
nghèo mạt, giả tạo. Có Cao Chu Thần, Miên Thẩm
mới cảm được nhân thế qua cái nghèo, cái cùng
cực của thường nhân! Thơ văn mới có hồn!
Ông
không dừng ở đây, mà c̣n thẳng với Vua mới
"bỏ mẹ đời"!
Vua
Tự Đức, vốn cũng sính thơ, mà thơ hay nữa.. Tác giả của câu thơ trữ t́nh bất
hủ:
"Đập cổ kính ra t́m lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành
hương".. (Khóc Dương Phi)
Một lần ông Vua này
nghĩ ra được một đôi thơ vừa Hán vừa
Nôm, rơ tuyệt. Nhưng lại quen tính "thiên tử"
bốc phét. Nên sau buổi chầu, ở lại cùng
đám cận thần sính thơ phú, có máu văn nghệ, mới
đem khoe rằng "trẫm nằm mộng" thấy
câu thơ hay, rồi đọc cho họ nghe:
Viên trung oanh chuyển khề
khà ngữ,
Dă ngoại
đào hoa lấm tấm khai.
Ai nghe cũng hít hà khen vùi, thánh đế,
th́ ắt là thần khẩu v.v và v.v Riêng có Cao Bá Quát lẳng
lặng, rồi "ư kiến" xin "phát biểu":
-Chắc
bệ hạ thức khuya dậy sớm, lo việc nước
nhiều mệt(!) nên lẫn đấy
thôi! Chứ hai câu này là trong bài thơ tám câu mà thần đọc
từ nhỏ!
Thế
có tán mạng không cơ chứ! Nhưng cái ông Tự Đức
này cũng thuộc hạng thích "nghe chửi chữ",
bèn đủng đỉnh bảo ông Cao đọc lên cho
nghe. Ông Cao thủng thẳng đọc một lèo :
-Bảo mă tây phong huếch
hoác lai,
Huyênh hoang nhân tự thác đề
hồi,
Viên trung oanh chuyển khề
khà ngữ,
Dă ngoại
đào hoa lấm tấm khai.
Sương nhật bất
văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ
kiến vũ bài nhài.
Khù khờ
thi tứ
đa nhân thức.
Khệnh khạng tương lai vấn tú
tài..
*Giai thoại này Tôi nghe Cụ tôi kể lại,
nên có thể khác với nhiều với các sách vở khác..
Cũng
được cái Ông Tự Đức là người ham vui, mà
tự trọng, biết Cao "xỏ nhẹ" cái tật
bốc phét của ḿnh, nhưng phục v́ hay và nhanh quá! Nên ông cũng cười xoà, và mọi người
cười "thở ra". Thế nên Cao Bá Quát,
không phải viết tự phê và đi cải tạo với
tội nhạo báng Bác Tự Đức...Khinh Chủ Tịch
v.v như thời dân chủ này.. Viết
đến đây , cứ nghĩ đến
thi sĩ Nguyễn Chí Thiện. Nếu mà "xui xẻo"
ông sinh vào thời phong kiến nhà Nguyễn Gia Long, Tự Đức,
chắc sướng hơn, không phải phí tuổi xuân
trong tù, không vợ như thời Nguyễn Ái Quốc...
Điều
cuối cùng mà Tôi muốn nói về Cao Bá Quát của Tôi, là
cái hiểu Nho Giáo của Ông, Ông hiểu Nho giáo như Mạnh
Tử hiểu, hiểu đến nơi đến chốn:
"Dân Vi Quí, Xă Tắc thứ chi , Quân
vi khinh", và không chỉ hiểu xuông, để đi
"tán dóc, khoe mẽ, hù dọa con trẻ" như Tôi,
Ông thực hành nó đến nơi đến chốn, bằng
sinh mạng ḿnh..cuộc đời ḿnh..
và thương thay! Thảm thay! Cả cuộc
đời ba họ nhà Ông!!! Cho nên mới quan niệm:
B́nh Dương Đồ Bản Vô Nghiêu Thuấn
Mục Dă Minh Điền hữu Vơ Thang..
Ông
thể hiện ngay cái qua niệm chính danh, định phận:
Quân Quân, Thần Thân, Phụ Phụ Tử Tử mà hành xử.. Vua phải ra Vua, Tôi phải ra Tôi, Cha phải
ra Cha, Con phải ra Con. Người nào có bổn phận,
trách nhiệm, quyền hạn nấy.. Ai không
làm đủ bổn phận với danh gọi, th́ coi
như không đúng, mất quyền hạn, phải bị
loại, bị phạt. Ngồi ngai Vua, mà không làm
đúng cái bổn phận trách nhiệm của Vua, là giữ
nhân cách, tu thân, tạo hạnh phúc cho nhân dân, trật tự
cho xă hội, tiến bộ cho nhân quần, th́ Vua hết
quyền làm vua, không đáng làm Vua, mà chỉ là tên tàn tặc,
cướp ngày. Dân cứ thế mà phế, mà
diệt. Ngựi Con Dân, không làm đúng bổn phận
cứ thế mà gia tội. Ông Quát khởi nghĩa là làm cái
việc ấy!
Xét
ra, nó cũng là lẽ dịch lư của vũ trụ vạn
vật và xă hội con người: "Thần thí kỳ
Quân, Tử thí kỳ Phụ, Phi nhất triêu, nhất tịch
chi quá. Kỳ sở do lai giả tiệm hỹ".. Bầy Tôi giết Vua, Con giết Cha,
đâu phải một sớm một chiều mà xảy ra!
Mà do Vua không làm đủ phận Vua, Cha không làm đủ
phận Cha , với những cái sai trái,
càn dở, lâu ngày nó tích tụ lại mà thôi!
Ôi cái thể chế Pháp Trị đời
nay có đi ra ngoài tư tưởng này đâu? Tư Tưởng người
xưa c̣n có phần đi xa hơn, hay bổ khuyết cho nền
Dân Chủ Pháp Trị đời nay ở chỗ "Tự
Thiên Tử, dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ
tu thân vi bản, kỳ bản loạn nhi mạt trị giả?",
Nh́n t́nh trạng tha hoá, xa đọa của những xă hội
Tiến Bộ Dân Chủ Pháp Trị hôm nay, mà đời sống
vô sỉ, bất đức có thật là Trị không?
Văn minh mà càng ngày đời sống cá nhân càng bất ổn,
cửa năm bẩy lớp, đủ loại báo động,
xe năm bẩy khoá, baó động đủ
cách. Đêm đêm ít dám ra đường.
Tương quan giữa con người không c̣n ǵ khác hơn
là Luật trị: Cha Mẹ, Con Cái cứ luật mà cư xử,
dù con cái có mắng nhiếc cha mẹ, đuổi ra
đường; Vợ Chồng, Anh Em, cũng cứ luật
mà tính v.v không c̣n Đức, chẳng c̣n Sỉ, không c̣n T́nh! Mỗi
người cứ suy nghiệm bản thân, kinh nghiệm sống
trưóc mắt, ắt có câu trả lời riêng.
Thôi
giời ạ! nhân cái vớ vẩn ngẫu
hứng, mà ngồi chép lại thơ văn , tư tưởng
của người xưa! Chỉ chép thôi, chứ không viết
làm ra, "Thuật nhi bất tác"! Chép chưa hết
được một phần, mà đă mỏi tay, mệt năo, dạ cứ bồi hồi. Mới
thấy những ǵ ḿnh viết chỉ là những ồn ào,
láo lếu không đâu! Cái thùng rỗng vẫn cứ thường
kêu to là thế...Người xưa và ḿnh nay, quả khác
nhau xa vời vợi...
Bởi thế, nên xin bạn đọc
lượng t́nh khi thấy những chữ viết không
đúng. V́
có đúng, hay sai, Tôi nào biết được! Với cái "Bồ "chữ" Nho, khi gơ vào
vang cả thế giói, nên nó thế. Cũng
v́ vậy mà chỗ nào "ḷe" được mới
dám múa "diễn thơ". "Diễn thơ"
thôi chứ không dám "dịch thơ"! C̣n
bài nào khó, không diễn nổi, th́ cứ để đấy
cho thiên hạ người ta "nhờ". Không th́
ai đọc đến đâu, người ta sẽ ôm bụng
lăn ra chết đến đấy!
Nghiệp quả, oan khiên tôi lại phải gánh! Nghiệp
đă nhiều lắm rồi!
Thân
kính,
Nguyên Khả Phạm
Thanh Chương.
Mùng 8 tháng 9 Tân Tỵ,
(24-10-2001) Một ngày bỗng nổi cơn "đại
cuồng".